Tên di sản : Đình Là Thôn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 435/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình Là Thôn nằm ở trung tâm làng, nhìn về hướng Đông, trên khu đất cao ráo, rộng thoáng, xung quanh là khu vực dân cư trù phú từ lâu đời.
Hiện tại không gian đình được phân bố gồm các hạng mục: Cổng, Sân và Đình nằm trên một khu đất cao rộng, thoáng mát.
Từ ngoài vào trong di tích có các công trình sau:
Cổng đình: Theo các cụ cao niên trong làng cho biết trước kia cổng đình được xây to hơn, cao hơn. Gồm cửa chính ở giữa và hai cửa phụ hai bên, mái lợp ngói mũi hài, cửa của công bằng gỗ có bánh xe lăn đóng mở dễ dàng. Hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn bằng cổng mới có chiều cao 4,1m, chiều dài 6,46m, xây 3 cửa gồm 1 cửa chính và 2 cửa phụ hai bên. Cửa chính cao đến chóp trụ cổng là 4,1m, rộng 2,5m, có hai cánh cửa sắt đóng mở, hai cửa phụ hai bên có chiều cao đến đỉnh trụ là 3,4m, mỗi cửa rộng 1,6m, hai bên có tường rào bao bọc.
Từ cổng vào đến sân đình là lối đi được lát gạch chỉ đỏ lát phẳng hai bên xây tường gạch kích thước rộng 4m, dài 13m ngăn cách đường với hai bên vườn được trồng các loại cây lâu năm như nhãn, chuối, hoa tươi.
Sân đình: Có chiều rộng 12,5m, chiều dài 18,5m, nền lát gạch bát màu đỏ 25cm x 25cm. Phía Nam sân đình có nhà sắp lễ ba gian. (Hiện tại nhà sắp lễ đang xuống cấp nghiêm trọng).
Nhà Đại đình: Nhà Đại đình dựng theo hướng Đông Nam, xây trên nền cao hơn mặt sân là 20cm, xung quanh bờ vỉa gạch, riêng bờ hiên được lát bằng những phiến đá lăn giai xanh to chạy hết chiều dài nền nhà, phiến đá có chiều dài 1,80cm, rộng 37cm, nền đình cao hơn nền hiên 10cm.
Đình được cấu tạo 5 gian, 2 dĩ, có chiều dài nền đình là 16,75m, chiều rộng: 7,9m; diện tích: 132,325m2.
Phía trước đình, 2 gian đầu hồi trước kia để thông thoáng, nhưng đến những năm 1960 Hợp tác xã xây cuốn cót 2 gian đầu hồi, được trổ của sổ ở hai gian đầu hồi, còn lại ba gian giữa để trống.
Dĩ đốc Bắc rộng: 1,45m;
Gian thứ nhất rộng: 2,60m;
Gian thứ hai rộng: 2,65m;
Gian thứ ba rộng: 3,30m;
Gian thứ tư rộng: 2,65m;
Gian thứ năm rộng: 2,65m;
Dĩ đốc Nam: 1,45m.
Cấu trúc ngang thân đình gồm 5 hàng chân cột, hai hàng cột cái trước và sau; hai hàng cột quân trước và sau; một hàng cột hiên kích thước (16cm x 16cm).
Khoảng cách từ giọt gianh đến cột hiên dài: 0,50m; Khoảng cách từ tim cột hiên đến tim cột quân dài: 1m; Khoảng cách từ tim cột quan đến tim cột cái: 1,45m; Khoảng cách từ tim cột cái trước đến tim cột cái sau: 3m; Khoảng cách từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau: 1,45m;
Khoảng cách từ tim cột quân sau đến tường hậu: 1m.
Hệ thống cột có kích thước: Cột cái có chiều cao 4m, đường kính cột: 0,30m;
Cột quân có chiều cao: 3,15m; đường kính cột: 0,25m;
Cột hiên có chiều cao: 2,13m (cột xây bằng gạch trát xi măng kích thước 16cm x 16cm).
Kích thước từ thượng lương đến nền nhà cao 4,85m;
Kích thước chân tảng cột cái: 45cm x 45cm;
Kích thước chân tảng cột quân: 42cm x 42cm;
Hai cột hiên xây bằng gạch vuông 16cm x 16cm, cao 2,13m.
Tổng thể, ngôi đình có 24 cột gỗ và hai cột hiên xây bằng gạch.
Các cột trong ngôi đình có tỉ lệ đường kính tương ứng với hình dáng của cột cũng như câu đầu có sự tương ứng với nhau giữa cột, tạo nên sự hài hòa trong không gian chung.
Kết cấu vì kèo:
Đình gồm 5 gian 6 vì kèo, đối xứng nhau: gian đầu đối xứng với gian cuối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 4.
Kết cấu vì kèo (vì 1, vì 6): giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết, chủ yếu kiến trúc là theo kiểu “chồng rường, kẻ bẩy”. Ở một bộ vì liên kết chính bắt đầu từ hai cột cái: hai đầu cột này được bổ mộng câu đầu ăn vào cột cái (ở đây câu đầu có nhiệm vụ như một quá giang). Trên thân câu đầu là hai trụ đứng trên đấu vuông), trên thân hai trụ đứng này là các con rường ngang cụt ăn mộng vào trụ đứng nằm trên các đấu vuông có nhiệm vụ đỡ hoành tải ở mái trước và mái sau. Nối hai trụ đứng này với nhau là một con rường dài nằm trên đầu hai trụ đứng, có nhiệm vụ đỡ cả mái trước, mái sau (còn gọi là rường bụng lợn), phía trên cùng là con rường dọc đỡ bát đấu đỡ thượng lương.
Từ dưới câu đầu trở xuống là hệ thống thượng chồng rường, hậu kẻ chuyền được ăn mộng vào đầu cột cái để đỡ câu đầu, đầu kẻ vươn ra nằm trên xà đùi, ăn mộng vào xà đùi và cột cái chạy vươn ra ăn mộng vào đầu cột quân. Để đỡ xà đùi này là kẻ bấy chạy ra gác tường hậu ở mái sau và cột hiên ở mái trước. Trên lưng kẻ chuyền, kẻ bấy là hệ thống lá dong đục lỗ tròn để hoành tải chạy qua làm nhiệm vụ đỡ mái.
Kết cấu vì 2 và vì 5: Theo kiểu “Giá chiêng, Kẻ chuyền”. Hai vì này được cấu trúc gồm các hệ thống câu đầu nối với hai đầu cột cái, xà lòng ăn mộng qua thân cột cái (phía trước, sau) và ăn mộng vào đầu hai cột quân ở mái trước và mái sau. Hệ thống kẻ bấy mái trước, mái sau ăn mộng vào đầu cột quân, mõm kẻ và nghé bẩy nằm dưới xà lòng để đỡ hoành tải theo thứ tự từ dưới lên trên, hệ thống lá dong nằm trên đầu kẻ bẩy; các kẻ này được chuyển lên đến vị trí câu đầu.
Kết cấu vì 3 và vì 4 là hai vì ở gian giữa được cấu tạo giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết “giá chiêng, chồng rường, kẻ chuyền”.
Từ ngoài hiên vào từ cột quân đến cột hiện thực chất là một đòn bẩy, nhưng cả hai đều có cột đỡ nên mang hình thức kẻ hiên. Kẻ hiện nay trực tiếp làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải ở phía trên. Còn đòn bẩy ở đầu cột hiên có thêm một chức năng nữa là đỡ tàu của kết cấu mái chạy suốt chiều dài mái ngói. Phần nối giữa cột cái với cột quân ở phía trong là hệ thống kẻ chuyền được đỡ bởi xà gánh hệ thống mái, đầu xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột ở đầu cột cái và đầu xà cột quân.
Từ đầu cột cái đến thượng lương được kết cấu kiểu con so chồng rường. Trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái hệ thống các con rường đỡ bằng đấu trụ vuông vắn. Đầu con rường thứ nhất trên nóc ăn mộng vào đầu trụ đứng đỡ hoành tải cả mái trước và mái sau. Trên cùng là guốc đỡ thượng lương. Toàn bộ rui, mè, hoành tải được làm bằng gỗ Tứ thiết, xà thượng, xà hạ, xà thế hoành được làm bằng gỗ hình dáng vuông vắn được soi gờ chỉ. Bộ mái lợp ngói mũi hài; bờ giải xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống phía dưới, trát vữa hồ trang trí đường giật cấp để chận mái, đắp vuông tạo thành bờ guột từ nóc đến mái hiên, bờ giải được xây giật 2 cấp; hai trụ mái đình đắp trụ vuông giật cấp.
Nhìn chung, trên một vì, kết cấu kiến trúc tuân theo một quy luật đăng đối. Tuy nhiên những phần kiến trúc quan trọng của công trình như hệ thống cột, quá giang, hệ thống trụ đứng, xà lòng, xà nách, kẻ, có tác dụng chịu lực (lực nén trọng lực của mái, lực giằng để liên kết các bộ phận của khung nhà).
Nghệ thuật chạm khắc: Nghệ thuật chạm khắc tập trung ở 6 vì kèo, kẻ hiên, các con rường, đặc biệt ở phần nóc hai vì 1 và vì 6 chạm khắc hình rồng, long ly, quy phượng và hình lá cúc cách điệu. Nghệ thuật chạm, nét đục sâu, tạo khối nổi thể hiện tính mềm mại, uyển chuyển.
Nhà giải vũ:
Trước kia ở hai bên phía hai đầu hồi đông và tây được xây hai nhà Giải vũ, mỗi nhà ba gian. Trải qua thời gian nhà Giải vũ phía Đông bị đổ nát, nhân dân địa phương dỡ làm nhà Trạm xá thôn và phần đất nhường lại cho dân. Hiện tại còn lại một bên nhà Giải vũ ở phía Tây. Nhà bị xuống cấp nghiêm trọng, kiến trúc gồm ba gian hai dĩ, có chiều dài 8m, rộng lòng 2,3m; gian giữa rộng 2,9m, hai gian hai bên mỗi gian rộng 2,3m, hai dĩ hai bên mỗi bên: 0,3m, bốn vì kèo gỗ bào trơn đóng bén, hệ thống kèo suốt từ tường hậu, tường long cốt đến tận mái không có hàng cột nào, quá giang đặt lên tường hậu, tường long cốt, hệ thống xà, hoành, rui, mè bằng gỗ, mái lợp ngói mũi hài, có một cửa chính ra vào ở gian giữa. Hiện tại không còn cánh cửa, nền lát gạch bát màu đỏ cũ.
Hệ thống thờ tự:
Ở gian giữa của đình là nơi thờ Thành Hoàng Làng (Quản Gia Đô Bác). Bệ thờ được xây bằng xi măng gồm 3 cấp: bệ có kích thước chiều dài: 2,87m, chiều rộng 0,97m, chiều cao 1,32m. Bệ thứ hai: dài: 2,87m, rộng: 0,97m, cao: 1,15m. Bệ thứ ba: dài 2,87m; rộng 0,97m; cao 0,90m. Trên bệ thờ đặt ngai thờ, bát hương, lư hương, chân nến, mâm bồng và một số đồ thờ khác.